Văn học Việt Nam khá phong phú và đa dạng, một trong những thể loại thơ rất nổi tiếng và khá bắt tai người nghe đó chính là thể thơ lục bát. Vậy làm sao để tự làm thơ lục bát một cách chuẩn chỉnh nhất. Bài học hôm nay sẽ đưa cho bạn câu trả lời hợp lý!
Mục lục
I. Thơ lục bát là gì?
Là thể thơ xuát hiện rất phổ biến trong kho tàng văn học Việt Nam. Thơ được cấu tạo từ hai câu trở trên, trong đó gồm hai câu 6 (câu lục) chữ và 8 (cấu bát) chữ được sắp xếp xen kẽ với nhau. Chủ đề về thơ lục bát rất đa dạng có thể là thơ lục bát về thầy cô, quê hương, bạn bè, tình yêu hay sự nghiệp…
Một trong những bài thơ lục bát nổi tiếng không thể không kể đến đó chính là bài: Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là bài thơ vô cùng nổi tiếng và đã đem lại tiếng vang lớn trong văn hóa con người Việt Nam.
Thơ lục bát
Lục bát là thể thơ đặc biệt của Việt Nam, mà truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất. Vần thơ lục bát có thể phân tách như sau:
Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp theo. Trong câu bát, tiếng 6 và 8 tuy cùng vần bình nhưng một tiếng có dấu huyền và một tiếng không có dấu.
2 4 6
bằng trắc bằng
2 4 6 8
bằng trắc bằng bằng
Bảng luật như sau:
Câu lục: + B + T + B
Câu bát: + B + T + B + B
(Ký hiệu: B là thanh bằng, T là thanh trắc, + là tự do.)
Ví dụ:
Thôn đoài ngồi nhớ thôn Ðông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Nguyễn Bính)
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
(Huy Cận)
Cách làm Thơ lục bát
Cần biết luật thanh khi làm thơ lục bát
- Hai câu lục và câu bát không thể thiếu để làm nên bài thơ lục bát hoàn chỉnh. Và quy tắc luật thanh người làm thơ cần nắm là: nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Trong đó các tiếng thứ một, ba và năm có thể là những tiếng tự do còn tiếng thứ hai, bốn và sáu phải tuân theo quy tắc.
- Cụ thể ở câu lục ta gieo theo trình tự các tiếng hai – bốn – sáu là thanh Bằng – Trắc – Bằng.
- Tại câu bát ta gieo theo trình tự các tiếng hai – bốn – sáu – tám là Bằng – Trắc – Bằng – Bằng.
Ví dụ:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Như vậy ở câu lục ta thấy gieo đúng “Bằng – Trắc – Bằng”. Ở câu bát gieo đúng” Bằng – Trắc – Bằng – Bằng”.
Tuy nhiên vẫn có trường hợp biến thể. Tạo nên sự “độc đáo” hơn, dù không đúng quy tắc trên.
Ví dụ:
Chào em cô gái áo vàng
Làm anh mơ màng mà chẳng nói tên.
Ở câu thơ này, câu lục vẫn gieo đúng “Bằng – Trắc – Bằng”. Nhưng câu bát gieo “Bằng – Bằng – Trắc -Bằng”.

Làm thơ lục bát gieo vần thế nào?
Thơ lục bát khác với các thể thơ khác ở chỗ cho phép người viết gieo nhiều vần trong câu chứ không nhất thiết là chỉ được gieo một vần duy nhất. Chính ưu điểm này giúp cách làm thơ lục bát trở nên dễ dàng hơn, và bài thơ có nhịp điệu, dễ đọc, dễ thuộc hơn hẳn.
Ví dụ Truyền Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Ở đó chúng ta thấy vần “a” được gieo ở 3 chỗ: ta, là, mà”. Vần “au” gieo ở 3 chỗ: nhau, đau, và dâu (là vần thông na ná nhau).
Tuy nhiên vẫn có biến thể về cách gieo vần. Cụ thể vần cuối câu sáu không nhất thiết gieo cùng vần thứ sáu câu tám. Ví dụ:
Chờ em chờ tới ngày mai
Dù cho mãi mãi vẫn chung một lòng.
Tiểu đối trong thơ lục bát:
Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) cảu câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát:
Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn.
Cấu trúc thơ lục bát
– Số tiếng trong bài thơ lục bát: mỗi cặp lục bát gồm có 2 dòng (lục: 6; bát: 8). Bài thơ lục bát là sự kế tiếp của các cặp như thế. Số câu trong bài không giới hạn.
– Nhịp: nhịp chẵn dựa vào tiếng có thanh không đổi (trừ 2,4,6), nhịp 2/2/2 tạo sự hài hòa, nhịp nhàng cho các cặp lục bát trong bài.
– Hài thanh:
+ Có sự đối xứng luân phiên B – T – B ở các tiếng 2,4,6 trong dòng thơ, đối lập âm vực trầm bổng ở tiếng thứ 6 và thứ 8 dòng bát.
Ví dụ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trong cặp lục bát trên có sự đối xứng nhau trong các thanh ở các tiếng 2,4,6. Câu lục là B – T – B “năm – cõi – ta”; câu bát là B – T – B – B “tài – mệnh – là – nhau”
+ Thơ lục bát có sự chặt chẽ về cách phối thanh: tiếng thứ 4 bắt buộc là trắc, các tiếng 2,6,8 phải là bằng. Trong đó trong câu bát tiếng thứ 6 và 8 cùng là bằng nhưng phải khác dấu, nghĩa là tiếng thứ 6 là dấu huyền thì tiếng thứ 8 phải không có dấu hoặc ngược lại.
Ví dụ:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
(Trích Kiều thăm mộ Đạm Tiên – Nguyễn Du)
Các từ “qua – cuộc – dâu/ điều – thấy – đau – lòng” tuân thủ luật B – T – B
Ta thấy câu bát tiếng 6 và 8 đều là vần bằng nhưng có sự ngược nhau: tiếng 6 thanh bằng, tiếng 8 thanh huyền.
Cách gieo vần thơ lục bát
Thơ 6 – 8 cũng có quy định nghiêm ngặt về cách gieo vần: hiệp vần ở tiếng thứ 6 của 2 dòng và giữa tiếng thứ 8 của dòng bát với tiếng thứ 6 của dòng lục.
+ Vần bằng: là các vần có thanh huyền và thanh ngang (không dấu)
Ví dụ: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.
“Trang – da” là vần bằng các tiếng thứ 6 câu lục và tiếng thứ 8 câu bát.
+ Vần trắc: là các vần có các dấu còn lại: sắc, hỏi, nặng, ngã
Ví dụ: “Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi”
“Nhện – quện” là vần trắc.
+ Vần chân: hiệp vần ở tiếng thứ 6 câu lục và tiếng thứ 8 câu bát.
Ví dụ: “Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
“Quanh – ngang” là vần chân cuối các câu lục và bát.
+ Vần yêu: là vần ở cuối câu lục hiệp với tiếng thứ 6 câu lục.
Ví dụ: “Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”
“Ba – là” gọi là vần yêu hiệp ở tiếng thứ 6 của 2 dòng.
Cách làm thơ song thất lục bát
Thơ song thất lục bát là thơ gồm có 4 câu đi liền với nhau, trong đó là hai câu 7 tiếng (câu thất 1 và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát.
Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Tôi chỉ đề cập đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 như các thể thơ khác mà lại chú ý vào các tiếng 3-5-7.
Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là T-B-T
Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là B-T-B
Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.
Ví dụ:Lòng này gửi gió đông có tiện T-B-T
Nghìn vàng xin gửi đến non yên B-T-B
Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhưng thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng.
Tiếng thứ 7 của câu thất 1 thanh trắc vần với tiếng thứ 5 thanh trắc của câu thất 2. Tiếng thứ 7 của câu thất 2 thanh bằng vần với tiếng thứ 6 câu lục kế.
Ví dụ:
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời.
Trong bài thơ có nhiều câu thơ song thất lục bát thì để nối hai nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp.
Ví dụ:
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu…
Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.